CÂU LẠC BỘ NHÀ BÁO TỰ DO

Tôn trọng và bảo vệ sự thật

ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

(LUẬN BÀN VỚI ÔNG NGUYỄN TRUNG)

Như Hà

Những ngày này cuối năm, những tin tức kinh tế xã hội hay chính trị luôn luôn đước đặt ở mức “nong nóng” bởi sự sôi động và bất ổn của cái thị trường bong bóng ăn theo do cái cơ chế quản lý nửa dơi nửa chuột chẳng giống ai của nhà nước “chính quyền nhân dân” đang điều hành,  đã làm đa số người dân không cảm thấy yên lòng, nhất là giới trí thức, doanh nhân là những tầng lớp nhạy  cảm nhất của xã hội và bao giờ cũng thế cứ mỗi dịp cuối năm là người ta thường “ngoảnh” lại xem chặng đường xa gần mà mọi người đã đi, để điểm lại cái được cái mất, cũng như nhìn về tương lai cho một năm mới và những năm tiếp theo để mà mừng mà lo.

Hôm nay trên mạng Vietnamnet, độc giả đón nhận bài viết đươc chia làm nhiều kỳ với chủ đề mang tính chủ đạo về kinh tế chính trị của TG Nguyễn Trung. Với đầu đề bài viết “Lời nguyền tài nguyên” và nguy cơ của một nước làm thuê và câu tựa đề hay câu kết luận:  25 năm vận hành nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chúng ta đang đứng trước nguy cơ trở thành một nước đi làm thuê và đất nước cho thuê với cả nghĩa đen và nghĩa bóng – Nguyễn Trung

Qua bài viết tác giả đã phần nào lột tả được bức tranh mang gam màu xám xịt của nền kinh tế VIệt Nam của cả hiện tại lẫn tương lai. Bằng việc điểm lại quá trình mà người ta gọi là từ thời kỳ đổi mới, với một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước lạc hậu nhất thế giới, người ta những tưởng nó dễ dàng như thời chiến tranh, hô hào người dân “ai có súng cầm súng ai có gươm cầm gươm” để rồi nhắm mắt lên giọng hô bừa công nghiệp hóa, hiện đại hóa…đất nước.. cho đến nay đã 25 năm có lẻ với bao nhiêu kế hoạch 5 năm được vạch ra, “rừng mơ” đâu chẳng thấy, mà người ta chỉ thấy đằng sau những đô thị mọc lên nham nhở là cả một cảnh hoang tàn, thảm hại đến xót xa!!!!!!!!!

Hậu quả của công nghiệp hóa hiện đại hóa đã được TG đúc kết lại là bán tài nguyên của cải của ông cha để lại và bán sức lao động của con dân, để rồi trở thành một bãi rác khổng lồ, một đát nước đi làm thuê và cho thuê về cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Điểm lại chặng đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đã đi TG so sánh là mới đi được một nửa, hoặc 1/3 chặng đường. Về điểm này tôi thấy không đồng nhất với ý kiến đó. Bởi nếu xét về các tiêu chí công nghiệp hóa hiện đại hóa theo mô hình của các quốc gia phát triển thì tôi thấy Việt Nam không phải là đang ở quá xa mà đang đi chệch hướng hay nói một cách khác Việt Nam vinh dự mang than phận là cái thùng rác đứng bên lề đườngcho kẻ qua người lại thải rác ra mà thôi. Bởi vậy nó không hề tham gia vào lộ trình đươc lập trình sẵn, nên không thể so sánh nó đi được phần trăm nào như TG nhận định.

Định nghĩa thế nào là công nghiệp hóa hiện đại hóa?

Tiêu chí công nghiệp hóa hiện đại hóa được đặt ra cho một quốc gia mà trong đó bao gồm hai lĩnh vực quan trọng đó là công nghiệp hóa con người và công nghiệp hóa công nghệ sản xuất phải. Một sản phẩm được làm do công nghệ và máy móc thay thế, giảm thiểu sức lao động tay chân của con người một cách tối đa và được thực hiện theo một dây truyền công nghệ khép kín.

Nhân tố con người được xã hội phân công, sắp đặt cũng nằm trong qui trình có mô hình công nghiệp hóa. Có nghĩa là cuộc sống của họ bị chi phối bởi guồng máy cơ cấu xã hội có mô hình công nghiệp hóa, qui chuẩn hóa. Công nghiệp hóa con người là yếu tố quan trọng nhất, bởi nó quyết định sự phát triển bền vững của một quốc gia

Cứ theo tiêu chí công nghiệp hóa hiện đại hóa nêu trên thì Việt Nam sẽ không bao giờ đạt được nếu tình trạng phát triển này cứ tiếp diễn. Mọi thành phần sống trong xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn có tư duy lạc hậu cò con, làm ăn manh mún, kể cả thành phần trí thức là giới có điều kiện tiếp thu với thế giới văn minh chưa chưa nói gì đến người nông dân cho đến này vẫn con trâu đi trước cái cày theo sau.

Nhất là nhìn vào cơ cấu xã hội, vẫn chưa thấy bóng dáng của nền công nghiệp hóa được manh nha, làm nền tảng cho các bước đi của tương lai thì làm sao nói đến chuyện đã đi được mức nào. Thậm chí đúng như nhận xét của TG về mô hình “GDP địa phương”. Xét về cơ cấu xã hội nhất là mô hình nhà nước của Việt Nam hiện nay người ta còn thấy nó mang bóng dáng của chế độ phong kiến phân quyền. Mỗi địa phương là một nhà nước thu nhỏ, cát cứ lãnh địa, đóng nộp sưu thuế hay được sự hỗ trợ của chính quyền trung ương tùy theo từng hoàn cảnh vùng miền. Nói chung cơ cấu xã hội và quản lý nhà nước từ thượng tầng kiến trúc cho tới hạ tầng cơ sở, chưa có dấu hiệu của một qui trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.Vì vậy, người ta nêu ra cái khẩu hiệu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” để làm cảnh, làm khẩu hiệu như kiểu hô khẩu hiệu “chống tham nhũng” hiện nay mà thôi. Nếu cứ đà này thì muôn đời Việt Nam sẽ không bao giờ và không thể có công nghiệp hóa.

Khái niệm hiện đại cũng vậy, một xã hội trong đó bao gồm nhiều lĩnh vực luôn thay đổi theo hướng đỏi mới công nghệ đổi mới tư duy, tiếp thu những giá trị tư tưởng và công nghệ khoa học mới nhất, tiến tiến nhất, qui mô nhất thì đó chính là hiện đại hóa

Còn vấn đề hiện đại thì xem chừng có khá hơn ở một vài lĩnh vực, chẳng hạn như công nghệ thông tin, do sự nhanh nhạy và có sự tác động khách quan rất lớn, Việt Nam đã có những bước tiến rất lớn về lĩnh vực này, chỉ có điều rất tiếc là ngoài việc hội nhập nhanh công nghệ thông tin ở môi trường xã hội thì nhà nước lại không biết tận dụng để khai thác phục vụ cho lĩnh vực kinh doanh, mà lại sử dụng nó để phục vụ cho mục đích chính trị,  bưng bít thông tin và trấn áp LL đối kháng, nhằm giữ gìn cho sự an toàn của chế độ.

Sau khi điểm qua quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ông Nguyễn Trung đã đưa ra hàng loạt những thành tích của quá trinh thực hiện công nghiệp hóa gây nên. Những tác hại khôn lường về mặt năng lực trí tuệ con người bị kìm hãm tha hóa chậm phát triển, tài nguyên thiên nhiên thì bị khai thác bừa bãi vơ vét đến cạn kiệt, môi trường bị xâm hại ô nhiễm nặng nề. Theo như lời TG thì di chứng của nó để lại sẽ ảnh hưởng rất lớn đế các thế hệ mai sau.

Đôi lời chia xẻ với tác giả

Phải nói là bài viết của ông Nguyễn Trung thể hiện một nhãn quan, một năng lực có tầm cỡ. Giá như và ước gì một ông thủ tướng cũng có đầu óc như thế hoặc giả vị trí ông thủ tướng phải là Nguyễn Trung thì hay biết bao. Nhưng than ôi, dó chỉ là mong ước và đát nước sẽ không bao giờ có một người lãnh đạo như thế, bởi tiêu chí của đảng cầm quyền đặt ra là những người lãnh đạo chủ chốt phải trung thành tuyệt đối với đảng, còn năng lực lãnh đạo chỉ là thức yếu.

Một điều làm tôi thấy áy này và trăn trở là trong nội dung bài viết , TG thường hay dùng chữ “chúng ta”. Có nghĩa tác giả hàm ý tất cả những việc làm gây nên hậu quả đó là do tất cả mọi người, chứ không phải do một nhóm hay một tổ chức, cá nhân nào gây lên. Ở đây cũng phải thông cảm cho ông Nguyễn Trung bởi để hợp thức hóa được bài viết được đăng tải, đôi khi người ta phải dằn lòng dùng tiểu xảo đánh đồng khái niệm hay dùng khái niệm chung chung, nhằm vượt qua cửa ải kiểm duyệt của chế độ là điều nhiều người trong nước đang làm.

Nhưng dẫu sao tôi vẫn thấy buồn là cái tác hại của chữ “chúng ta” không phải là nhỏ. Bởi nhân dân chính là chúng ta, mà chúng ta không làm nên tội và chúng ta chỉ là nạn nhân của một chế độ độc tài độc đảng, nấp dưới danh nghĩa chính quyền nhân dân, để tự tung tự tác, dùng quyền lực để cai trị nhân dân mà thôi. Tuy chia xẻ với TG là vậy, nhưng muốn biết tư tưởng chính trị của ông Nguyễn Trung ra sao! Xin quí vị hãy đón đọc bài viết tiếp theo của ông với tựa đề: Lấy chế độ chính trị đồng nghĩa với Tổ quốc

Hà Nội, ngày 30/12/2009

Nguồn: Tiếng Nói Dân Chủ


Bài tham khảo:

“Lời nguyền tài nguyên”và nguy cơ của một nước làm thuê 25 năm chưa thấy rõ hình hài công nghiệp hoá

Trong 25 năm kể từ khi tiến hành Đổi Mới, kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng: chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh về giá lao động rẻ (trình độ tay nghề thấp, ít hàm lượng kỹ thuật, thậm chí một bộ phận đáng kể là lao động cơ bắp); khai thác tài nguyên thiên nhiên, (3)đẩy mạnh đầu tư từ các nguồn trong nước và nước ngoài cho phát triển một nền kinh tế sử dụng nhiều lao động giá rẻ và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên, (4)sử dụng lãng phí đất đai và không thân thiện với môi trường.

Nhìn chung trong suốt thời kỳ này nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, song chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp so với công sức bỏ ra và so với những cái giá phải trả. Đại hội X đã phê phán tình trạng yếu kém của mô hình phát triển theo chiều rộng.

Mối lo lớn nhất là sau ¼ thế kỷ tăng trưởng và phát triển kể từ khi đổi mới, nước ta cho đến nay vẫn chỉ là người cung cấp lao động rẻ, nông phẩm thô, nguyên liệu thô hoặc sơ chế thấp, sản phẩm gia công, sản phẩm chế tạo với hàm lượng công nghệ thấp, đất đai và thị trường nội địa trở thành nơi thu hút FDI chủ yếu cho công nghiệp có hàm lượng công nghệ thấp và gây nhiều gánh nặng cho môi trường tự nhiên và xã hội…

Trong thập kỷ tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nhất thiết đòi hỏi phải có tầm nhìn thấu đáo cục diện thế giới – với lý tưởng lợi ích dân tộc và lợi ích quốc gia là duy nhất và trên hết, để có đủ trí tuệ và bản lĩnh tạo ra cho đất nước bên trong là sự đồng thuận không gì phá vỡ được, bên ngoài là một bối cảnh hòa bình tối ưu cho phép.

Với chiến lược phát triển dựa vào 4 yếu tố như vậy, thế mạnh lớn nhất và nguồn lực nội tại lớn nhất của đất nước là con người Việt Nam không được phát huy. Trên thực tế nước ta đang đứng trước nguy cơ trở thành một nước đi làm thuêđất nước cho thuê với cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Với GDP tính theo đầu người hiện nay đạt khoảng 1000 USD – tăng khoảng 10 lần so với khi bước vào đổi mới, nước ta mới ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp. Hiện tại nền kinh tế nước ta phát triển ở mức thấp trên các phương diện: trình độ lao động, hàm lượng công nghệ, năng lực kinh doanh, năng lực quản lý đất nước, hiệu quả kinh tế, sự phát triển của con người, của văn hóa, xã hội và của toàn bộ hệ thống chính trị…

Nhìn chung sau 25 năm vẫn chưa thấy hình hài của một nền kinh tế công nghiệp hóa, càng chưa thể hình dung một quốc gia công nghiệp Việt Nam trong vòng một hai thập kỷ tới sẽ ra sao. Điều này có nghĩa vào năm 2020, thời điểm hoàn thành mục tiêu trở thành nước công nghiệp hóa, nước ta sẽ vẫn còn đứng cách rất xa các chỉ tiêu của một nước được coi là hoàn thành giai đoạn công nghiệp hóa.

Một quốc gia hoàn thành thời kỳ công nghiệp hóa còn phải được nhìn nhận theo các tiêu chí của một xã hội công nghiệp. Trên phương diện này, phải nói nước ta còn khá lạc hậu so với một nước công nghiệp hóa và so với thế giới chung quanh về nhiều mặt: dân trí, tính công khai minh bạch, xã hội dân sự, năng lực, tính trách nhiệm và tính tin cậy được (accountability) của bộ máy nhà nước, đặt Hiến pháp và pháp luật lên trên hết, khả năng đề kháng hay khắc phục những tha hóa mới về nhiều mặt nhiễm phải trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập, đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng lạc hậu và đi sai hướng của hệ thống giáo dục với những hệ quả lâu dài và khó lường cho tương lai…

Nói một cách hình ảnh: Đến năm 2010, sau ¼ thế kỷ đổi mới, nước ta có lẽ mới chỉ đi được khoảng 1/3 hay một nửa đầu của toàn bộ chặng đường công nghiệp hóa mà thôi.

Từ nay đến năm 2020 có cách nào “đi” hay “bay” nốt 2/3 hay một nửa chặng đường còn lại không? Dứt khoát không! Thậm chí “đi” hay “bay” tiếp tục như hiện nay, sẽ rất khó có một nước Việt Nam công nghiệp hóa trong vòng ba bốn thập kỷ tới, hoặc không bao giờ!

Không để bị ru ngủ mãi

Sau 25 năm công nghiệp hóa, nước ta có một nền kinh tế còn nhiều đặc tính manh mún, bóc ngắn cắn dài, tranh thủ được cái gì thì làm cái nấy, và nhìn chung là ngày càng có những mất cân đối lớn, ngày càng đi sâu vào một cơ cấu kinh tế lạc hậu và ô nhiễm môi trường nặng nề! Hơn nữa tính mất cân đối,  tính lạc hậu này và tình trạng ô nhiễm môi trường đã tới ranh giới chịu đựng cuối cùng.

Xin đơn cử một vài ví dụ:

o       Xuất khẩu than, dầu, gạo và nhiều sản phẩm khác đã tới đỉnh của khả năng cho phép, không thể vượt qua được, thậm chí tiếp tục duy trì những cái “đỉnh” này có thể dẫn tới thảm họa.

o       Ô nhiễm môi trường và sử dụng đất đai lãng phí đã tới mức nguy hiểm, trong khi dân số tiếp tục tăng, ruộng đất ngày càng khan hiếm.

o      Cơ cấu kinh tế lạc hậu và nhiều chính sách kinh tế – xã hội hiện nay chẳng những có thể lọai bỏ cơ may mà “cơ cấu dân số vàng” của chúng ta (tỷ lệ người trong tuổi lao động chiếm quá nửa hoặc gần gấp đôi số người sống phụ thuộc) có thể đem lại cho đất nước. Thậm chí “cơ cấu dân số vàng” này có thể biến thành mối đe dọa lớn vì nạn thất nghiệp và sự xuống cấp của xã hội đang trở nên nghiêm trọng.

o       Hiện nay vì những yếu kém về nhiều mặt trong thu hút FDI, nước ta hàng năm phải tìm cách xuất khẩu một lượng lao động lớn, đang trở thành địa điểm cho nước ngoài thuê để làm ra các sản phẩm tiêu hao nhiều tài nguyên, năng lượng và gây ô nhiễm moi trường. Nói gắn gọn, nước ta về nhiều mặt thực chất đang là nước đi làm thuê và là đất nước cho thuê.

o       Nhập siêu và thâm hụt ngân sách cứ tiếp tục như hiện này sẽ hứa hẹn những đổ vỡ lớn trong tầm tay.

o       Càng nhiều đô thị hiện đại mọc lên do đầu tư nước ngoài, nhưng sự phát triển những mặt khác nếu không phát triển đồng bộ (nhất là luật pháp, năng lực hành chính, các chính sách kinh tế, các ngành dịch vụ, nguồn nhân lực, các ngành cung ứng…) thì sẽ hoặc là thất bại lớn, hoặc biến thành các dự án treo, thành đầu cơ đất đai và tạo ra nhiều nguy cơ khác nữa.

Xin đừng để những lời khen vàng ngọc của nước ngoài về “tính năng động”, về “triển vọng tốt đẹp” của kinh tế Việt Nam, về “khả năng hấp dẫn” của thị trường Việt Nam, “Việt Nam là nền kinh tế đang lên”, về vân vân… ru ngủ chúng ta.

Cứ cho những lời khen ấy là thực bụng, thì cũng đừng quên họ nhìn Việt Nam về nhiều mặt đang là thị trường tốt nhất để đưa tới những thứ họ đang muốn loại bỏ ở nước họ hoặc những thứ các nơi đang thừa ế và muốn tống khứ. Các dự án đóng tàu, dự án thép và xi-măng khổng lồ là những ví dụ tiêu biểu, chưa nói đến hàng trăm sân golf…

Càng phát triển, càng ách tắc

Tóm lại, tình hình phát triển kinh tế 25 năm qua cho thấy mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng đã đi trọn vòng đời của nó. Điều này thể hiện tập trung nhất ở chỉ số lạm phát và chỉ số ICOR của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng cao và thuộc loại cao nhất ở châu Á, đồng thời lạm phát vượt xa mức tăng trưởng.

Nói nôm na đấy là hiện tượng: Tiền của công sức bỏ ra ngày càng nhiều, hiệu quả kinh tế thu được có tỷ lệ ngày càng thấp. Kéo dài tình trạng này sẽ kiệt sức.


Tăng trưởng GDP Tỷ lệ lạm phát Chỉ số ICOR
2006 8,17% 7,7% 5,0
2007 8,48 12,6 5,2
2008 6,23 19,89   (22,97)* 6,9
2009** 5,2 9,4

Nguồn: Tổng cục Thống kê *IMF & EIU **Dự báo

Càng phát triển, nền kinh tế càng tích tụ nhiều ách tắc hay mất cân đối mới. Những hiện tượng ách tắc này được đặt dưới cái tên gọi chung là những thắt cổ chai. Đó là những mất cân đối ngày càng gay gắt:

  • · giữa khả năng đáp ứng của kết cấu hạ tầng và đòi hỏi phát triển của nền kinh tế; giữa sự phát triển yếu kém nguồn nhân lực và đòi hỏi của phát triển kinh tế – xã hội;
  • · giữa khả năng quản trị quốc gia và đòi hỏi phát triển của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập, tình trạng quan liêu và nạn tham nhũng, khả năng yếu kém trong thực thi pháp luật…;
  • · đặc biệt là tình trạng nhập siêu và tình trạng thâm hụt ngân sách nghiêm trọng: Nhập siêu từ năm 2000 ngày càng lớn và được coi là ở mức báo động.  Kể từ năm 1995 đến 2005, nhập siêu của Việt Nam luôn ở mức dưới 5 tỷ USD và ước khoảng 10% GDP;  song đã tăng vọt lên trên 12 tỷ USD vào năm 2007 (gấp 2,4 lần so với năm 2006) và đến hết tháng 9/2008, tổng mức nhập siêu đã lên tới con số 15,8 tỷ USD (ước khoảng trên 20% GDP/năm)…  Nếu phân tích  các quốc gia ta nhập siêu, sẽ thấy bức tranh trầm trọng hơn (chủ yếu từ Trung Quốc và các nước châu Á – là các quốc gia có công nghệ thấp). Thâm hụt ngân sách từ năm 2000 trung bình là 5-6% GDP/năm, riêng năm 2009 dự kiến là 8% GDP/năm.
  • · giữa một bên là năng lực và chất lượng trong việc hoạch định chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển.., và một bên là đòi hỏi phát triển mọi mặt đất nước.

Hệ quả lớn nhất của tình trạng càng phát triển càng tích tụ ngày càng nhiều ách tắc và mất cân đối lớn là hầu như cản trở mọi chiến lược hay chủ trương phát triển có tính dài hạn.

Mới dừng ở công nghiệp hóa “gặp gì làm nấy”

Nội dung công nghiệp hóa trên thực tế đã tiến hành 25 năm qua chủ yếu được xác định qua các chỉ số tăng trưởng đặt ra cho các kế hoạch 5 năm theo các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), thiếu hẳn việc xác định nội dung cụ thể công nghiệp hóa về một số ngành và sản phẩm kinh tế mà quá trình công nghiệp hóa phải từng bước giành được cho các thị trường ngách hoặc thị trường mới. Nói một cách khác đấy là cách hoạch định công cuộc công nghiệp hóa về mặt số lượng.

Việt Nam thiếu hẳn chiến lược, kế hoạch và các quy hoạch cụ thể phát triển kết cấu hạ tầng đi song song hoặc đi trước một bước mở đường cho sự tiến triển của công nghiệp hóa với nội dung khai thác thị trường ngách và chiếm thị trường mới.

Chúng ta cũng thiếu hẳn chiến lược phát triển nguồn nhân lực mà sự nghiệp công nghiệp hóa/ hiện đại hóa đất nước đòi hỏi, thậm chí có thể nói hệ thống giáo dục và chính sách phát triển nguồn nhân lực hiện nay là hoàn toàn bất cập, trực tiếp gia tăng sự tụt hậu của đất nước và để lại nhiều hệ quả lâu dài.

Ta chỉ đề ra yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các chỉ số số lượng cần đạt được cho tỷ trọng các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), song trong thực tế  thiếu rất nhiều chính sách vĩ mô hỗ trợ quá trình chuyển đổi này, những chính sách vĩ mô hiện có không đáp ứng được đòi hỏi này. Các Đại hội đều phê phán là cơ cấu kinh tế chuyển đổi rất chậm, nhưng đến nay chưa có kế sách gì đảo ngược tình hình này.

Đặc biệt nghiêm trọng là các Đại hội Đảng đều thừa nhận cải cách chính trị không đi kịp với đòi hỏi của phát triển kinh tế và xã hội, do đó chẳng những không thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, không phát huy được cái mạnh và những thuận lợi của đất nước. Thậm chí, nó làm cho quá trình này chậm lại. Trong quá trình thực hiện, các kế hoạch 5 năm thường bị thiên lệch, biến tướng khá xa.

Nói ngắn gọn, cho đến nay mới chỉ có chủ trương hay mong muốn công nghiệp hóa với cái đích phải đạt được vào năm 2020; nghĩa là thiếu hẳn một chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đồng bộ, xuyên xuốt và có hiệu quả cho mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hóa.

Tất cả những điều vừa trình bày toát lên một sự thật: Nước ta sau 25 năm trên thực tế vẫn chưa có một chiến lược công nghiệp hóa đúng với cái tên gọi của nó. Quá trình công nghiệp hóa cho đến nay diễn ra hầu như dưới dạng một chuỗi các kế hoạch 5 năm cộng lại, và rất khó nói rằng những kế hoạch 5 năm này được thiết kế theo một quan điểm chiến lược công nghiệp hóa xuyên xuốt.

Thực tế đã diễn ra chủ yếu là: tranh thủ làm được gì làm nấy, gặp gì làm nấy, không ít tình trạng chồng chéo, trùng lặp, giẫm đạp lên nhau – tỉnh anh có xi măng lò đứng, tỉnh tôi cũng có; tỉnh anh có nhà máy mía đường, tỉnh tôi không kém tỉnh anh; tỉnh anh có khu công nghiệp, tỉnh tôi cũng không thua…

Quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua chủ yếu do sự lôi kéo, sức đẩy và sự dẫn dắt tự thân của cuộc sống và tác động của đầu tư và dòng vốn từ bên ngoài, nhiều hơn là do sự thúc đẩy theo một hướng chiến lược được xác lập của hệ thống chính trị và do sự giác ngộ với tầm nhìn sắc bén của những người lãnh đạo.

Cần nói ngay, phát triển như thế đang tạo ra nguy cơ lệ thuộc (chứ không phải phụ thuộc lẫn nhau, cũng không phải “win-win”) ngày càng nguy hiểm

Đổi mới thể chế chưa theo kịp đổi mới kinh tế

Hơn nữa, nội dung công nghiệp hóa 25 năm qua chưa đặt ra vấn đề phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của  nước ta là con người Việt Nam.

Các Đại hội Đảng nhấn mạnh coi con người là trung tâm, song lại hiểu vấn đề này chủ yếu theo những khía cạnh phát triển giáo dục, văn hóa, xã hội. Trên thực tế triển khai, chưa thể nói con người đã trở thành trung tâm của mọi chính sách phát triển kinh tế xã hội. Càng chưa thể nói con người là đối tượng trung tâm được phục vụ của mọi nỗ lực của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước.

Xin nhấn mạnh: quan điểm coi con người là trung tâm như vậy và quan điểm phát huy thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước là con người cho sự nghiệp công nghiệp hóa là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.

Có lẽ sự thiếu vắng một chiến lược công nghiệp hóa dựa trên phát huy thế mạnh và nguồn lực lớn nhất này của đất nước là một trong các tác nhân chính khiến cho quá trình và nội dung công nghiệp hóa 25 năm qua nặng về chạy theo số lượng, chứ không phải là chất lượng.

Sự thiếu vắng quan điểm chiến lược cực kỳ hệ trọng này đã xô đẩy quá trình công nghiệp hóa chủ yếu chạy theo số lượng rất khó cưỡng lại; qua đó công nghiệp hóa rơi vào tình trạng bước trước không chuẩn bị được bao nhiêu cho bước tiếp theo, càng phát triển cơ cấu kinh tế càng khó chuyển dịch. Tình trạng này đồng thời cũng tăng thêm sự hụt hẫng và trì trệ trong đổi mới thể chế chính trị – xã hội theo yêu cầu phát huy thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước là con người.

“Lời nguyền tài nguyên”

Càng phát triển, quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua có khuynh hướng càng đi sâu vào kinh tế thượng nguồn: khai thác khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác, phát triển sản phẩm thô, giá trị gia tăng rất thấp, duy trì công nghệ lạc hậu, cái giá phải trả cho hủy hoại môi trường tự nhiên và môi trường xã hội rất cao…

Đặc biệt là trong các “nền kinh tế GDP tỉnh”, hầu như tất cả các tỉnh có khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên thì đều coi đấy là thế mạnh của mình và ra sức khai thác bừa bãi; có nơi Thủ tướng đã phải ra lệnh đình chỉ.

Phát triển kinh tế thượng nguồn là điều khó tránh khỏi ban đầu đối với một nước nghèo và lạc hậu. Song sai lầm là ở chỗ muốn lấy phát triển kinh tế thượng nguồn làm cú hích và nguồn tích tụ vốn cho công nghiệp hóa, thậm chí coi kinh tế thượng nguồn là một nội dung quan trọng của công nghiệp hóa, tại nhiều vùng trong nước đã và đang xảy ra phát triển kinh tế thượng nguồn với bất kỳ giá nào.

Cũng phải nói rõ thêm, nhiều tỉnh bí quá không biết làm gì thì bóc rừng và bóc khoáng sản để lãnh đạo tỉnh “thi đua” trong việc tạo thành tích thay đổi tỷ trọng cơ cấu trong “nền kinh tế GDP tỉnh” của mình, nhân dân tại chỗ chịu thêm nhiều thiệt hại và nhà nước hầu như không được lợi gì song trên mặt nhiều báo cáo lại được coi đây là thành tích!

Hạch toán chung của phát triển kinh tế thượng nguồn theo kiểu như vậy trong 25 năm qua là lợi bất cập hại, cái giá phải trả cho phát triển quá đắt so với mức tiến bộ đạt được, tiếp tục ghìm giữ đất nước trong vòng lạc hậu cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Chính điều này góp phần giải thích tại sao 25 năm ban đầu của nước ta đi chậm hơn 25 năm đầu của các NICs như Hàn Quốc và Đài Loan, thậm chí đang thúc đẩy đất nước rẽ vào ngả đường trở thành một Philippines mới!

Trên thế giới người ta gọi hiện tượng này là căn bệnh Hà Lan hay là “lời nguyền của tài nguyên”, giải thích căn nguyên hàng chục năm qua lấy xuất khẩu tài nguyên làm nguồn thu nhập quan trọng song hiện nay vẫn ở trong vòng lạc hậu – đấy chính là căn bệnh kinh tế Hà Lan đã mắc phải năm 1977, khi quá chú trọng xuất khẩu khí thiên nhiên và qua đó làm trì trệ và suy sụp nhiều ngành kinh tế khác, Hà Lan buộc phải thay đổi chiến lược phát triển của mình để tìm lối thoát.

Hãy thử xem xét một số vấn đề:
Các xí nghiệp xi-măng, luyện thép đã có, đang xây dựng, hoặc đã được cấp phép xây dựng sẽ dẫn tới tình hình nước ta vào năm 2020 thừa khoảng một chục triệu tấn xi măng/năm và khoảng 20 triệu tấn thép/năm trong tình trạng đất nước ngày càng thiếu năng lượng gay gắt. Phải chăng mục tiêu công nghiệp hóa của nước ta như vậy là để trở thành cường quốc xi-măng và thép trong thế kỷ 21 này?

Nếu điều này xảy ra, chắc chắn là một thảm họa cho đất nước – trước hết vì cảnh quan môi trường tự nhiên của đất nước sẽ bị “mặt trăng hóa” nhiều vùng, kinh tế nước ta sẽ đổ vỡ, vì bị xi-măng và thép không có khả năng cạnh tranh của chúng ta đè bẹp..

Vào năm 2015 trở đi, nước ta sẽ thiếu năng lượng trầm trọng và phải nhập khẩu, trong khi đó xuất khẩu than và dầu của nước ta xuốt 25 năm qua hầu như bỏ qua tương lai của đất nước! Phát triển thủy điện đã vượt qua cái ngưỡng cho phép.

Trong khi đó nhà nước lại thiếu hẳn việc nghiêm khắc rà xoát, đánh giá lại chính sách năng lượng quốc gia hiện nay, thiếu hẳn những nỗ lực xử lý nghiêm khắc và khắc phục tình trạng lãng phí và thất thoát năng lượng quá lớn đang diễn ra hàng chục năm nay.

Nếu đánh giá nghiêm túc chi phí/lợi ích (cost/benefit), bao gồm cả những việc như chi phí cho khắc phục những tác động ngoại vi của việc khai thác than, hoàn trả môi trưởng tự nhiên nơi khai thác, sự thất thoát hàng chục triệu tấn than lậu/năm, sự tàn phá môi trường tự nhiên trong vùng, đánh giá cái được và cái mất so với đòi hỏi của chiến lược năng lượng quốc gia, vân… vân… khó có thể coi việc khai thác mỗi năm khối lượng càng lớn than ở Quảng Ninh là môt thành tựu kinh tế.

Đúng hơn nên coi đó là một thất bại kinh tế lớn và một sai lầm về chiến lược năng lượng – không phải do chủ trương khai thác than, mà do năng lực quản lý và hiệu quả kinh tế yếu kém; đặc biệt quan trọng là do thiếu hẳn một chiến lược năng lượng quốc gia được xác định với những luận chứng vững chắc làm cơ sở cho việc khai thác. Thậm chí còn có thể coi việc khai thác than Quảng Ninh trong khi đất nước ngày càng khan hiếm năng lượng là một trong các ví dụ rõ nét nhất của tình trạng “bóc ngắn cắn dài”, các thế hệ tương lai phải trả giá! Trong cả nước còn có nhiều công trình khai thác titan, khai thác đồng, khai thác các khoáng sản khác để xuất khẩu nguyên liệu với hệ quả xấu tương tự

Rừng phòng hộ và rừng tự nhiên ngày càng bị trọc hóa và chỉ còn lại rất ít; đặc biệt là rừng đầu nguồn đã rất ít mà còn đang tiếp tục bị xâm phạm nghiêm trọng. Lũ lụt ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn và khó khắc phục hơn. Đất đai bị xói mòn và sa mạc hóa cùng với tình trạng chất lượng thổ nhưỡng ngày càng xuống cấp đang gia tăng với tốc độ rất đáng lo ngại.

Xin hãy đến tận nơi các khu khai thác này, dù là titan ở dọc bờ biển miền Trung, dù là những  cánh rừng nham nhở do khai thác quặng sắt ở Lào Cai để xuất khẩu sang Trung Quốc, các vùng khai thác vàng bừa bãi ở Bắc Kạn, Quảng Nam, Bình Thuận… – mà chủ yếu là khai thác lậu, những dòng sông chết, những con sông  bị đổi dòng và đôi bờ sụt lở do bán cát, những cánh đồng hoang do các dự án treo… để nhìn tận mắt thực trạng này.

Xin hãy đối chiếu thực tế nêu trên với quan điểm ghi trong nghị quyết Đại hội X: “Căn cứ vào nguồn lực và hiệu quả, Nhà nước tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế như lọc hóa dầu, khai thác quặng và luyện thép, phân bón, hóa chất, xi-măng, khai thác bô-xít và sản xuất alumin, bột giấy gắn với trồng rừng và một số sản phẩm cơ khí chế tạo” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc khóa X, trang 197-198).

Học từ sai lầm của những nước đi trước

Việt Nam là nước đi sau, có rất nhiều cái bất lợi và cái lợi phải xử lý thỏa đáng – điều này có nghĩa phải tìm ra con đường riêng của mình để không phải lặp lại những sai lầm của các nước đi trước, tránh các nguy cơ trở thành “bãi thải công nghiệp” của các nước khác, đồng thời tìm ra cho mình con đường thuận lợi hơn.

Thị trường thường chật cứng đối với nước đi sau – vì vậy phải khai thác lợi thế nước đi sau trong việc chiếm lĩnh các thị trường ngách (các “niches”), mà muốn thế phải có các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và chính sách đối ngoại cho phép liên kết, chiếm lĩnh những khâu nào đó của các chuỗi cung – ứng trên thị trường thế giới để có khả năng khai thác tốt nhất các thị trường ngách. Công nghiệp hóa vì vậy cần có trọng tâm là chú trọng, tranh thủ khai thác các thị trường ngách, đồng thời tìm đường chiếm lĩnh thị trường mới;.

Hiển nhiên 25 năm qua những đòi hỏi này không được đặt ra hoặc không được đặt ra một cách đúng tầm để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta.

Tác giả: NGUYỄN TRUNG

Xây Chế Độ Chính Trị Đồng Nghĩa Với Tổ Quốc

Chế độ chính trị của đất nước phải như thế nào để người dân gắn kết sống chết với nó bằng tất cả nhiệt huyết yêu nước của mình. Xây dựng một chế độ chính trị đồng nghĩa với tổ quốc là điều nhất thiết phải hướng tới.

LTS: Trong phần trước, Nguyễn Trung bàn về những khuyết tật của mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, dẫn tới nguy cơ Việt Nam trở thành đất nước làm thuê và cho thuê. Từ đó, ông kết luận: Chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu là mệnh lệnh sống còn bởi vì mọi yếu tố cho phát triển theo chiều rộng đã tới giới hạn chịu đựng cuối cùng.

Ở phần này, Nguyễn Trung đưa ra những khuyến nghị về chuyển đổi mô hình phát triển theo chiều sâu. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, trong đó có những vấn đề cần được tranh luận, làm sáng tỏ thêm. Mời độc giả cùng tranh luận.

Không phải là con người công cụ!

Với tất cả những yếu tố đã phân tích trong phần trước, việc chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu là đòi hỏi tất yếu. Việc chuyển giai đoạn phát triển một cách có ý thức như vậy là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và gian khổ. Hơn lúc nào hết phải huy động trí tuệ cả nước, kinh nghiệm của thế giới, sự quyết tâm một lòng một dạ của toàn dân, và sự tận tụy, trung thành tuyệt đối của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đối với lợi ích quốc gia để có thể thực hiện thành công nhiệm vụ sinh tử này với cái giá phải trả thấp nhất.

Dưới đây chỉ nêu lên một vài gợi ý ban đầu và rất sơ lược.

Một là, nói chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu, trước hết là nói đến phát triển chủ yếu dựa trên cơ sở phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của đất nước là con người, là phát triển rất chú trọng đến chất lượng.

Đặt vấn đề như vậy, có nghĩa là thay đổi căn bản quan điểm hiện có về chiến lược phát triển.

Con người được nói tới ở đây vừa là chủ của chính bản thân mình, là chủ của đất nước, vừa chính mình trực tiếp là lực lượng sản xuất quyết định nhất. Câu hỏi đặt ra ngay tức khắc là thể chế luật pháp nào, hệ thống giáo dục nào, khung khổ xã hội nào, và những chính sách phát triển kinh tế – chính trị – xã hội nào cần phải có để có thể tạo ra được và tiếp tục phát triển được con người như thế.

Bao trùm lên tất cả là phải duy dưỡng và xây dựng những giá trị nào làm nền tảng đạo đức, tinh thần và tâm hồn của con người với tính cách như thế – con người của hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, chứ không phải là con người công cụ.

Câu trả lời nếu tìm được, trước hết sẽ có nghĩa phải sẵn sàng và chấp nhận triệt để nhiều thay đổi căn bản trong thể chế chính trị và trong hệ thống quản lý đất nước, cũng như trong tìm tòi và thiết kế các chính sách phát triển đất nước.

Câu trả lời nếu tìm được, thì những công việc phải làm do nó đề ra không thể là những công việc một sớm một chiều, mà phải là một quá trình cải cách và phát triển liên tục, lâu dài, có các bước trước – sau và đồng bộ.

Cho đến nay, có không ít các nghị quyết của Đảng nói về phát triển con người, đề ra được rất nhiều vấn đề quan trọng không thể thiếu được, song hình như vẫn chưa đụng tới được cái gốc: con người vừa là chủ bản thân và là chủ của đất nước, vừa là lực lượng sản xuất quyết định nhất, là con người hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, không phải là con người công cụ.

Phải chăng chính vì lẽ này các nghị quyết như thế không thực thi được bao nhiêu?

Nói bao nhiêu cũng không xuể về chủ đề con người này, song nhất thiết cần nhấn mạnh chế độ chính trị của đất nước phải như thế nào để người dân gắn kết sống chết với nó bằng tất cả nhiệt huyết yêu nước của mình.

Xây dựng một chế độ chính trị đồng nghĩa với tổ quốc là điều nhất thiết phải hướng tới. Không có điều kiện này, ước mơ sẽ trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại đủ sức ganh đua với thiên hạ mãi mãi sẽ chỉ là ước mơ.

Khoa học và chân lý phải có tiếng nói quyết định

Đặt vấn đề như nêu trên là khởi điểm và đồng thời cũng là nền tảng để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thời đại ngày nay trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Quan điểm này không mới, chiếm vị trí quan trọng trong rất nhiều nghị quyết và chính sách của Đảng và Nhà nước. Suốt 25 năm qua công sức và ngân sách bỏ ra cho mục tiêu này không ít. Song kết quả cuối là chỉ đạt được hàm lượng khoa học và công nghệ thấp trong sản phẩm làm ra, trong chất lượng các chủ trương chính sách, trong luật pháp, trong quy hoạch phát triển, trong các quyết định chiến lược, quyết sách.., cũng như trong bộ máy làm việc của toàn bộ hệ thống chính trị nói chung và của hệ thống nhà nước nói riêng…

Kết quả cuối cùng còn là sự lãng phí rất to lớn về tiền của, công sức và thời gian. Tham nhũng trong đầu tư cho khoa học và công nghệ không thể nói là nhỏ, càng không nhỏ đối với một nước nghèo như nước ta.

Nhiều phê bình trong nước và từ nước ngoài nói khâu “R&D” (“nghiên cứu & triển khai) của nước ta rất kém. Nhận xét này đúng nhưng không đầy đủ, bởi vì nhận xét này không nói lên được nguyên nhân chính của tình trạng này là chưa có con người và thể chế phải có; thậm chí nhận xét này còn bị hiểu thiên lệch là ta làm “R&D” chưa giỏi và vì ta nghèo!

Tình trạng “hàm lượng thấp” như vừa nêu trên còn do một nguyên nhân chính trị rất quan trọng: ý chí chính trị chứ không phải khoa học và chân lý có tiếng nói quyết định.

Cải cách giáo dục và đào tạo cần bắt đầu từ chỗ không nói dối

Chuyển sang giai đoạn phát triển mới nhất thiết phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo.

Đòi hỏi phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo hầu như được sự nhất trí rộng rãi trong cả nước. Vấn đề còn đang tranh cãi là cải cách theo hướng nào, tiêu chí nào. Đề nghị trực tiếp tham khảo ý kiến các bên hữu quan để có sự đánh giá riêng của mỗi người và cùng nhau tranh luận cho sự lựa chọn phương án tối ưu nhất cho đất nước.

Phương án cải cách định lựa chọn nhất thiết phải tuân thủ mục tiêu đào tạo, hình thành và phát huy con người hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, không phải là con người công cụ.

Sự nghiệp cải cách này cũng phải tiến hành từng bước và liên tục với một kế hoạch được thiết kế sao cho có thể vừa đáp ứng ngay những đòi hỏi bức xúc của phát triển và vừa phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững của đất nước. Cải cách như thế sẽ là sự nghiệp của cả thập kỷ 2020 và sau nữa, phải rất triệt để, nhưng cũng không thể nóng vội được.

Chỉ xin lưu ý, nhiệm vụ này là của cả nước chứ không thể chỉ là của riêng ngành giáo dục và đào tạo, bởi vì tính chất cải cách giáo dục và đào tạo bao gồm và liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực khác của toàn bộ đời sống đất nước. Nói một ví dụ đơn giản là không thể tiến hành cải cách này trong tình hình còn đầy rãy những hiện tượng bằng thật không ăn nhằm gì và có quá nhiều trường hợp là bị thải loại và thua bằng giả.

Thực tế tại các quốc gia cũng cho thấy không thể tiến hành cải cách này một cách đích thực nếu thể chế chính trị và xã hội của quốc gia ấy chịu khuất phục những giá trị ngược lại với những mục tiêu một nền giáo dục và đào tạo tiên tiến phải theo đuổi.

Điều xin đặc biệt nhấn mạnh là cải cách giáo dục và đào tạo thành công trong thập kỷ 2020, sẽ quyết định tương lai của đất nước trong thế kỷ 21, chứ không phải sự nghiệp công nghiệp hóa như đang làm. Thậm chí có thể nói sự nghiệp cải cách giáo dục và đào tạo cần bắt đầu từ chỗ không nói dối!

Đổi mục tiêu và cơ cấu kinh tế

Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đây là một quá trình đau đớn, gian khổ, nhưng tất yếu phải làm.

Những vấn đề nêu trong các điểm bên trên đã nêu ra được một số nguyên nhân, nhưng chắc chắn chưa đủ. Cần nghiên cứu công phu để tìm ra giải pháp.

Trước mắt nên bỏ cách tư duy “kinh tế GDP” tỉnh, tạm thời đặt sang một bên vấn đề tỷ trọng các khu vực kinh tế trong phạm vi tỉnh để đánh giá tỉnh đó tiến bộ hay thụt lùi, mà nên đo lường bằng kết quả thu nhập của người dân, chất lượng cuộc sống của họ, khả năng cạnh tranh đích thực của các sản phẩm của tỉnh, kết quả cạnh tranh đạt được, chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào các sản phẩm tỉnh có lợi thế nhất, chuẩn bị cho những sản phẩm mới tỉnh có lợi thế lớn; ở cấp quốc gia cũng phải làm như vậy.

Quan điểm và khái niệm về công nghiệp hóa như đang có cũng phải xem lại, trong đó nông nghiệp cần được hiểu và phải hướng tới là một nền nông nghiệp của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại – đặc biệt là công nghệ sinh học và bảo tồn sinh thái; một nền nông nghiệp như thế phải chiếm một vai trò quan trọng (chứ không phải các tỷ lệ số học) trong chiến lược công nghiệp hóa như đã được xới lên ở trên.

Hoàn thiện thị trường để tăng chất lượng các tín hiệu thu được cần thiết cho các quyết sách; đồng thời cần tạo ra những hậu thuẫn (chứ không phải bao cấp) có thể cung cấp từ phía nhà nước, cộng đồng và doanh nghiệp cho việc làm ra một sản phẩm mới cũng như cho việc thải loại một sản phẩm dứt khoát phải chia tay, nhất là những hậu thuẫn cho việc thu hẹp kinh tế thượng nguồn.

Hàm lượng công nghệ được đưa vào, khả năng hướng tới nền kinh tế carbon thấp, khả năng cạnh tranh, khả năng chiếm lĩnh các thị trường “ngách”, khả năng chiếm lĩnh chỗ đứng trong các chuỗi cung – ứng trên thị trường thế giới, khả năng hướng tới kinh tế trí thức… đó là các tiêu chí và cơ sở cho việc đề ra các chính sách và biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tất cả cần luôn luôn chú ý đến cái lợi và bất lợi của nước đi sau (khai thác lợi thế nước đi sau), tất cả luôn luôn nhằm vào cái đích dần dần tạo ra một nền kinh tế chủ yếu dựa vào phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của đất nước là con người.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải ưu tiên nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh và mở rộng thị trường nội địa còn rất rộng lớn của nước ta cho sản phẩm của ta, đảo ngược hẳn tình hình thị trường nội địa nước ta hiện đang bị sản phẩm nước ngoài nắm giữ phần lớn. Đòi hỏi này hoàn toàn không có gì liên quan đến tư duy “tự cung tự cấp” hoặc “thay thế nhập khẩu”, bởi lẽ nước ta đã hội nhập kinh tế thế giới và thị trường nước ta là thị trường mở.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đặc biệt chú ý tạo ra khả năng mở rộng thị phần và chiếm thêm các “thị trường ngách” của các nước trên thế giới trong tình hình các nước đều phải tiến hành điều chỉnh kinh tế của họ theo hướng phải quan tâm nhiều hơn nữa đến thị trường nội địa của họ. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của nước ta hiện nay vẫn đang có nhiều lợi thế lớn, song phải nâng cao khả năng cạnh tranh về chất lượng và dịch vụ mới có thể phát huy được trong tình hình mới.

Thậm chí nếu cần thiết, tạm thời chấp nhận chỉ số tăng trưởng có thể thấp trong một số năm nhất định, nếu quá trình chuyển dịch cơ cấu đem lại chất lượng tăng trưởng tốt hơn và mở đường cho sự phát triển năng động hơn tiếp theo.

Có lẽ không nên bám lấy mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020 với bất cứ giá nào, vì điều này vừa không hiện thực, vừa trở nên không quan trọng nữa, thậm chí nếu năm 2020 trở thành cường quốc xi-măng và thép thì rất nguy hiểm. Mục tiêu chiến lược nên chọn là vào năm 2020 sẽ hoàn thành việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo nội dung đã trình bầy trên, để kinh tế nước ta từ 2020 sẽ bước hẳn vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu.

Ngay khi cả nước đã thống nhất được ý chí, có quyết tâm lớn, hoạch định được các bước đi cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tinh thần như vậy, công việc phải làm cho 10 năm tới rất nhiều và diễn ra trong mọi lĩnh vực của cuộc sống đất nước, sẽ đầy khó khăn gian khổ, không có trí tuệ và nỗ lực cao nhất sẽ không hoàn thành nổi! Chắc chắn sẽ có những vấp ngã mới – nhưng đấy sẽ là những vấp ngã trên đường đi lên.

Nếu từ nay đến năm 2020 mà thực hiện được mục tiêu chuyển dịch này, thì cần phải coi đó là một thành tựu kì diệu có tính bước ngoặt như đổi mới năm 1986 – vì nó mở ra cho đất nước một giai đoạn phát triển mới.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đưa đất nước vào một giai đoạn phát triển mới như thế rõ ràng là một quá trình chuyển dịch tổng thể kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước để đi vào giai đoạn phát triển mới cao hơn.

Trọng trách trên vai Đảng

Nhìn lại, yếu tố nổi bật nhất của 25 năm đổi mới là dân chủ. Có thể nói thừa nhận đổi mới là kết quả của thừa nhận dân chủ; rồi đến thành tựu đạt được của đổi mới trước hết là nhờ dân chủ: trí tuệ và nguồn lực được cởi trói, được phát huy – từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường.

Cũng là một sự thật, thành tựu bậc nhất ấy của đổi mới còn bị xem là một nguy cơ của diễn biến hòa bình, vì thế 25 năm qua có không ít khó khăn, đôi khi bị kìm hãm. Đi vào giai đoạn phát triển mới của đất nước, phải thẳn thắn đối mặt với sự thật này.

Tập đoàn kinh tế nhà nước yếu kém, nền “kinh tế GDP tỉnh” và “tư tưởng nhiệm kỳ” – đấy là 3 nhân tố quyện lại với nhau lũng đoạn nghiêm trọng nhất kinh tế đất nước, hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước. Đồng thời 3 yếu tố này và tác động cộng hưởng của chúng cũng là những tác nhân trực tiếp băng hoại nhiều nhất những giá trị cần gìn giữ, là mảnh đất mầu mỡ của mọi tha hóa. Giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi phải khắc phục được những yếu kém này.

Đất nước bước vào thập kỷ 2011 – 2020 với Đại hội XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đảng cầm quyền và lãnh đạo đất nước. Tình hình, nhiệm vụ, thách thức đất nước sẽ đối mặt trong thập kỷ 20 này chắc chắn sẽ đặt lên vai Đảng trọng trách rất lớn và sự thử thách quyết liệt.

Nguyễn Trung
Theo Tuần Việt Nam

Filed under: Chính Trị-Xã Hội,

Leave a comment

Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát

[a film by André Menras Hồ Cương Quyết] Đây là một phim tài liệu về cuộc đời hàng ngày của anh chị em ngư dân miền Trung (Bình Châu và Lý Sơn).