CÂU LẠC BỘ NHÀ BÁO TỰ DO

Tôn trọng và bảo vệ sự thật

CHUYỆN NGƯỜI BẮC VÔ NAM

Blog Hiệu MinhChấp hành kỷ luật của anh Xôi Thịt và Tổng Cua, TC. Bình viết entry này, kể về những chuyện vui buồn của một “anh Bắc kỳ” đã, đang và sẽ sống ở miền Nam.

Mình sinh ra và lớn lên ở một vùng mà hầu như 100% là dân từ đồng bằng Bắc bộ di cư năm 1954 vào Nam. Vì thế, khi còn nhỏ,Việt Nam đối với mình coi như chỉ có toàn người Bắc. Tiếng nói thì đương nhiên là tiếng Bắc, nhưng vẫn khác nhau giữa các xứ đạo vì mỗi xứ là một địa phương khác nhau ở miền Bắc vào.

Xứ mình lúc đó gọi mẹ là Bu, bố là Thầy, lại không phát âm được dấu ngã, cứ là dấu hỏi tuốt luốt. Bọn trẻ xứ khác có dịp là chọc ghẹo: “Thầy bu mày hôm qua ăn thịt mở, uống nước lả, bị thổ tả, chết cả lủ phải không”.

Bọn mình tức lắm và sẽ tìm cách chọc lại, tỉ như nói: “Con tâu tắng buộc bụi te bụi túc, cái bụng ló ăn lo ló tòn tùng tục như cái tống teo”. Hoặc là trễ môi ra nhại: “Mẹ…ẹ có nhà không giai..i? – Mẹ…ẹ ơi mẹ…ẹ, xe be…e nó đè…è  em bé…é”. Sau này lớp trẻ lớn lên thấy quê mùa nên sửa, bây giờ chả thấy ai nói ngọng thế nữa.

Tội nhất là mấy bà nơi khác về làm dâu trong xứ, bọn trẻ như mình nhiều phen được những trận no cười. Bác gái mình là dân Kim Sơn, cứ lẫn lộn giữa l và n. Một lần đến chơi bác sai lấy cái nồi, mình tìm không thấy mới hỏi bác trai. Tai quái, mình cứ nheo nhéo “Bác có thấy cái lồi đâu không”. Bác trai chắc đang cáu chuyện gì, chạy đến cầm cái nồi quẳng ra sân miệng thét vang: “Lồi, lồi. Lồi cái lồi mẹ nó…”. Mình hết hồn co cẳng chạy mất.

Quần áo thì chả có gì khác, trừ cái khăn rằn quấn cổ, cái áo bà ba của mấy bà, mấy cô người Nam, nhưng thức ăn nhiều chuyện cũng buồn cười. Chị gái mình không biết đi đâu thấy người Nam ăn mướp đắng (khổ qua) nhồi thịt. Tưởng bở, chị về hái mướp đắng dại, cũng nhồi thịt. Đắng quá chả ai ăn được, bố mình tế cho một trận.

Có lần anh trai mình đi lính về phép mua về mấy trái sầu riêng. Minh đi học về thấy, cứ nghĩ bụng: “Quái lạ, sao có giống mít gai to và mùi thối thế”. Lúc khui ra ai cũng chê thối, anh mình “được” ăn một mình, phải bây giờ thì không đủ chia.

Về món chao thì hồi đó ở quê chả ai biết ăn. Mình nhớ mãi có lần nằm ở BV Biên Hòa, tên chính thức là BV Phạm Hữu Chí, mình ngửi thấy mùi gì thối quá. Tìm mãi mới phát giác ra anh chàng nằm kế ăn chao, lại là loại chao dú. Loại này nặng mùi hơn, mình chưa ăn, nhưng loại chao đựng trong lọ thủy tinh thì mình rất thích. Sau này đi học xa mình mày mò hỏi mãi mới có thằng bạn, có mẹ là người Tầu, chỉ cách làm. Bây giờ nhiều người Bắc  ăn chao như hạm, còn ghiền là khác.

Ấn tượng sâu đậm nhất về người Nam của mình là qua một… nhỏ con gái.

Hồi đó, vào khoảng năm 73. Nghỉ hè, mình lên Biên Hòa coi cháu cho chị gái có chồng là lính không quân. Nhà chị ở ngay gần Ngã 3 Vườn Mít, chung quanh hàng xóm toàn là người Nam. Biên Hòa là thành phố lớn, mình lúc đó 15 tuổi, học giỏi, lanh lợi nhưng so với dân thành phố thì vẫn quê một cục. Mấy bác lớn tuổi có đôi khi gọi mình là Bắc kỳ con. Mình không giận vì biết họ nói chơi thôi, không ác ý.

Có mấy con nhỏ hàng xóm, thua mình vài tuổi nhưng lí lắc kinh người. Đứa cháu gọi mình là cậu, mấy đứa cũng tự nhiên gọi mình là cậu, cậu Mười, theo thứ trong nhà. Thật tự nhiên, có một con nhỏ nói tỉnh bơ: “Cậu Mười đẹp trai quá ời… ơi”.  Cũng nhỏ đó, lần nữa là: “Cậu Mười dễ thương quá ời… ơi”. Phải nghe đúng người Nam nói những câu đó mới cảm được nó…như thế nào.

Các bác tưởng tượng dùm, thằng con trai mới lớn như mình nghe mấy câu nói ngọt lịm sườn cỡ đó từ miệng một con nhỏ thật dễ thương thì sẽ đi đâu về đâu ? Dám bảo đảm với các bác, không một cô bé người Bắc nào dám khen một thằng nhóc thẳng tuột, tự nhiên như vậy. Sau này, dù đã nghe nhiều câu nói còn hay ho hơn của nhiều quý cô quý bà Nam-Trung-Bắc, mình cũng chưa bao giờ… muốn chết như lần đó.

Khi đã quen nhiều, bọn nó còn đưa tiếng Bắc của mình ra chọc ghẹo. Có lần mình hỏi xin cái nịt, bọn nó cười ầm lên. Cái nịt, cái dây nịt, với người Nam là sợi dây thắt lưng, còn cái mình cần người ta gọi là cọng thun hay sợi thun. Còn có nhiều dịp mình bị quê xệ kiểu đó.

Ở kế nhà chị mình có ông giáo tiểu học, là ba của con bé khen mình kể trên. Cứ chiều dạy học xong về đến nhà là ông ta ói vì say quá. Còn ông già đánh xe ngựa đối diện thì chiều nào cũng kêu gọi chiến hữu đến nhậu say bét nhè, thường xuyên đái cả ra quần. Mình thấy lạ quá, mấy bà vợ và mấy cô con gái chả nói gì, cứ vui vẻ lau dọn, thay quần, vui vẻ như không. Hàng xóm cũng cho đó là chuyện thường, chả chê cười dè bỉu gì cả.  Nói trộm, gặp mấy bà đồng hương của mình chắc sẽ cho ăn…đủ thứ.

Giờ đây, sau mấy mươi năm sống gần với người Nam, mình nhiễm cách sống của họ lúc nào không biết. Mình quý nhất là tính xuề xòa, chân tình, có sao nói vậy không câu nệ màu mè. Chỉ riêng tiếng nói thì mình vẫn giữ cách phát âm của người Bắc vì nó chuẩn nhưng vẫn thấy chưa hài lòng vì nghe rạch ròi quá, kém gợi cảm như tiếng Nam. Con mình thì 3 đứa đầu còn nói tiếng Bắc, đứa út vì hồi nhỏ đi nhà trẻ nên bó tay. Nghe tiếng nói, chả ai dám bảo nó là người Bắc. May là nó giống hệt mình, không thì…

 Thỉnh thoảng đi ăn cháo lòng, mình cứ hô dõng dạc: “Cho một tô cháo Bắc kỳ”. Bà bán cháo biết ý, múc cháo thật đặc.

Rõ là cái tính ăn chắc mặc bền của người Bắc đến chết mình vẫn chưa bỏ được. Kể đến đây thì tịt. Thôi, hẹn các bác lần sau, nhớ thêm sẽ viết tiếp.

Chúc bà con vui cuối tuần.

Filed under: Kinh Tế-Đời Sống,

Leave a comment

Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát

[a film by André Menras Hồ Cương Quyết] Đây là một phim tài liệu về cuộc đời hàng ngày của anh chị em ngư dân miền Trung (Bình Châu và Lý Sơn).